Thứ Sáu, 30 tháng 7, 2010

Đường THỦ KHOA HUÂN

Những "con đường xưa Em đi"

Nam Bắc 13
[BTHThuKhoaHuan02.jpg]


Đường Thủ Khoa Huân


ÐƯỜNG THỦ KHOA HUÂN: Vị thế cũng như hai đường Lê Đại Hành và đại lộ Ðinh Tiên Hoàng cũng tạo ngã ba với cả Trương Tấn Bửu và Hùng Vương, dù đường chỉ là gạch nối ngắn bên trái có trường Trung học Tư Thục Bác Ái, so với các trường tư không có lớp đệ nhị cấp thì trường Bác Ái thọ hơn cả. Bên phải từ giữa cho tới Hùng Vương là các cơ sở phụ thuộc nhà thờ Bến Tre trong đó có phòng cha Tỏ dạy nhạc cho ban nhạc và ban hát thánh ca giáo đường nầy. Cha Tỏ cũng thường lên trên khu sân vận động đánh tennis, lúc đó ông mặc đồ thể thao, trán ông bắt đầu hói: Ông đen thui hà!

NhàQuê
2006


Phần Sưu Tầm Về Thủ Khoa Nguyễn Hữu Huân

[BTHThuKhoaHuan01.jpg]

Nguyễn Hữu Huân được ghi nhận là "một hiện tượng đặc sắc của văn học yêu nước thế kỷ 19 của Việt Nam: hiện tượng nhà thơ - chiến sĩ."

Bài thơ chữ Hán dưới đây, ông làm trước khi bị chém, nay được tạc nơi bia mộ ông. Sau đây là bản dịch của Phan Bội Châu:

Ruổi dong vó ngựa trả thù chung
Binh bại cho nên mạng phải cùng.
Tiết nghĩa vẫn lưu cùng vũ trụ,
Hơn thua xá kể với anh hùng.
Nổi xung mất vía quân Hồ lỗ
Quyết thác không hàng, rạng núi sông.
Tho thuỷ ngày rày pha máu đỏ,
Đảo Rồng hiu hắt ngọn thu phong.

Và:

Hai bên thiên hạ thấy hay không ?
Một gánh cương thường, há phải gông.
Oằn oại hai vai quân tử trúc,
Long lay một cổ trượng phu tòng.
Sống về đất Bắc, danh còn rạng
Thác ở thành Nam, tiếng bỏ không
Thắng bại, doanh thâu trời khiến chịu
“Phản thần”,“đéo ỏa” đứa cười ông!

Bài thơ ông làm nghe tin vợ dám đi kiện quan đầu tỉnh An Giang, và đòi Pháp thả chồng:

Xem qua thư gửi rất kinh hoàng
Nhi nữ chà chà cũng lớn gan
Đơn bẩm cuối lòn loài bạch quỷ,
Sân quỳ vất vả phận hồng nhan
Bán mình đâu nệ phiền lòng sắt,
Chuộc tội thà xin trọn nghĩa vàng
Tiết khí dưới trần coi ít mặt,
Cang thường càng chuộng gánh giang san.

Ông làm trước khi bị đày ra đảo Cayenne ở Nam Mỹ:

Muôn việc cho hay số bởi trời
Chiếc thân chìm nổi biết bao nơi
Mấy hồi tên đạn ra tay thử,
Ngàn dặm non sông dạo gót chơi.
Chén rượu Tân đình nào luận tiệc
Vần thơ cố quốc chẳng ra lời.
Cương thường bởi biết mang nên nặng,
Hễ đứng làm trai trả nợ đời.

Nhân nhà Tổng đốc Phương có tiệc, ông làm bài này để đọc cho mọi người nghe:

Nghĩ thẹn râu mày với nước non
Nhìn nay tùng, cúc bạn xưa còn.
Miếu đường cách trở niềm tôi chúa,
Gia thất riêng buồn nỗi vợ con.
Áo Hán nhiều phen thay vẻ lạ,
Rượu Hồ một mặt đắm mùi ngon
Giang Đông nổi tiếng nhiều tay giỏi,
Cuốn đất kìa ai, dám hỏi đon!

Qua hình ảnh “cây bắp”, để tỏ bày tấm lòng cùng khát vọng của ông:

Luống chịu ba trăng trấn cõi bờ,
Hiềm vì thương chút chúng dân thơ.
Nương oai tích lịch ôm con đỏ,
Vâng lịnh nam phong phất ngọn cờ.
Miễn đặng an nhà cùng lợi nước
Chỉ nài dãi gió với dầm mưa.
Biển hồ dầu lặng, tằm kình bặt
Giải giáp một phen chúng thảy nhờ.

Hai câu đối do Nguyễn Hữu Huân làm trước khi bị thụ hình, hiện được treo trang trọng tại bàn thờ của ông.

Hữu chí nan thân, không uổng bách niên chiêu vật nghị,
Tuy công bất tựu, diệc tương nhất tử báo quân ân.


Tạm dịch:

Có chí khôn bày, không uổng trăm năm lời nghị chúng
Tuy công chưa thành, cũng đành một thác báo ơn vua.