Đoản Rời: Tạp Khúc HÀNH HƯƠNG 34
Buổi sáng trước khi lên đường vẫn như thường lệ dùng điểm tâm nơi khách sạn lưu ngụ, cũng hình thức buffet nhưng thức ăn có nhiều loại cung cách Huế, tôi có thử qua vài món nhưng thành thật mà nói dù đây nơi chánh gốc của các món có trong danh mục ẩm thực được những con người từ nơi đây mang đến nơi khác giới thiệu về ... nhưng tôi không cảm thấy ngon miệng bằng những món cùng tên gọi khi tôi đến những thành phố ở Mỹ, những thành phố tôi có ghé lại và thưởng thức qua ... hay là đầu bếp khách sạn chỉ loại "thường thường bậc trung" chăng!? Còn nếu như chỉ gói ghém trong số tiền thỏa thuận giữa khách sạn và công ty tổ chức du lịch thì e rằng không phải là cung cách giới thiệu nét độc đáo của địa phương, cách hấp dẫn khách tham quan du lịch.
Buổi sáng đầu tiên nầy thật ý nghĩa, bởi nó "lần đầu tiên" có sự gặp nhau giữa 4 nền văn hóa: Nền văn hóa Cố Đô vốn thoang thoảng văn thơ, u hoài hiền hòa, phong kín như Cấm Thành im lìm chịu đựng ... Nền văn hóa Tây Đô, giản dị như dòng nước Cửu Long như ruộng đồng cây lành trái ngọt, ... Nền văn hóa Bắc Mỹ lạnh lùng bề ngoài nhưng cân đong đo đếm sòng phẳng như chiếc máy đo Digital rất nhạy, nhất là đánh giá chính xác không lầm lẫn đặt sâu thăm thẳm bên trong, .... và nền văn hóa Đông Đô khoa trương ồn ào hình như sợ người chung quanh quên sự hiện diện của mình ... Thế kỷ 21 đã qua một thập niên rồi nha các bạn ta ơi ... xin bỏ chiếc tăm xỉa răng khi rời khỏi bàn ăn giùm ! Cám ơn....
Ly cà phê sáng ngồi nán nhìn ngắm chung quanh cũng là điều thú vị ...
Khi xe xuống dốc đến ngã ba Nam Giao rẽ phải ... xa dần trung tâm thành phố Huế hướng về thượng nguồn sông Hương, ghé lăng Khải Định tạm dừng lấy sẳn vé tiện khi trở về sẽ viếng sau, .... sau khi qua cầu Tuần bắt đầu ra khỏi quốc lộ 1, thẳng đến lăng vua Minh Mạng ... từ bãi đậu xe đi vào khu lăng tẩm khá xa và vào cổng phụ gần nhất vì cổng chánh đã khóa hẳn sau khi quan tài của vua đã được di chuyển vào trong (năm 1843 ?)
Xin trích tài liệu trên Net:
Tháng 2 năm 1820, vua Gia Long qua đời hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm được đưa lên ngai vàng, lấy niên hiệu là Minh Mạng. Làm vua được 7 năm, Minh Mạng cho người đi tìm đất để xây dựng Sơn lăng cho mình. Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn được một cuộc đất tốt ở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành con sông Hương thơ mộng. Nhưng phải ròng rã 14 năm cân nhắc, chọn lựa, đến năm 1840, nhà vua mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này. Nhà vua cho đổi tên núi Cẩm Kê (thuộc ấp An Bằng, huyện Hương Trà) thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Đích thân nhà vua xem xét, phê chuẩn họa đồ thiết kế do các quan Bùi Công Huyên, Trương Đăng Quế và Giám thành vệ dâng lên. Tháng 4 năm 1840, công cuộc kiến thiết Hiếu Lăng bắt đầu. Vua sai các quan Lê Đăng Danh, Nguyễn Trung Mậu và Lý Văn Phức điều khiển lính và thợ thuyền lên đây đào hồ đắp La thành. Tháng 8 năm 1840, Minh Mạng lên kiểm tra thấy công việc đào hồ Trừng Minh không vừa ý nên giáng chức các quan trông coi và đình chỉ công việc. Một tháng sau, công việc vừa được tiếp tục thì Minh Mạng lâm bệnh qua đời vào tháng 1 năm 1841. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, chỉ một tháng sau (tháng 2-1841) đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương chỉ huy gần 10.000 lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng họa đồ của vua cha để lại. Ngày 20 tháng 8 năm 1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành, nhưng công việc xây lăng mãi đến đầu năm 1843 mới hoàn tất. Từ một vùng núi đồi hoang vu, qua bàn tay lao động và óc sáng tạo của con người đã hình thành một khu lăng tẩm uy nghiêm, vừa rực rỡ về kiến trúc, vừa hài hòa với thiên nhiên lại vừa sâu sắc bởi giá trị tư tưởng
Tháng 2 năm 1820 vua Gia Long băng hà, con trai thứ tư là Phúc Kiểu, húy là Đảm lên nối ngôi, đặt niên hiệu Minh Mạng. Minh Mạng là ông vua có nhiều đóng góp vào việc ổn định và xây dựng vương triều Nguyễn, mở mang đất nước, củng cố nền thống nhất quốc gia…
Sau khi ở ngôi được 7 năm, nhà vua sai người đi tìm đất để xây dựng sơn lăng cho mình. Quan địa lý Lê Văn Đức đã chọn được chỗ đất tốt thuộc địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch tạo thành con sông Hương để xây dựng lăng tẩm. Nhưng mãi 14 năm sau vua Minh Mạng mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này. Lăng cách Huế 12km.
Lăng Minh Mạng (ảnh chụp năm 1966)
Tháng 4-1840, Vua lên xem lại chỗ đất và đổi tên núi Cẩm Kê thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Tháng 9-1840 triều đình huy động 3000 lính và thợ lên san mặt bằng và xây La Thành chung quanh khu vực kiến trúc. Công trình đang xúc tiến thì Minh Mạng lâm bệnh và mất ngày 20-1-1841 (thọ 50 tuổi). Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, một tháng sau đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương chỉ huy gần 10.000 lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng họa đồ của vua cha để lại. Ngày 20-8-1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chông ở Bửu Thành, tấm bia “Thánh đức thần công” dựng ngày 15-1-1842 nhưng công việc xây lăng mãi đến năm 1843 mới hoàn tất.
Lăng Minh Mạng là một tổng thể kiến trúc qui mô gồm khoảng 40 công trình lớn nhỏ gồm cung điện, lâu đài, đình tạ… được bố trí cân đối trên một trục dọc theo đường thần đạo dài 700m từ Đại Hồng Môn ở ngoài cùng tới chân tường của La thành sau mộ vua. Hình thể của lăng tựa dáng một người đang nằm nghỉ trong tư thế thoải mái, đầu gối lên núi Kim Phụng, chân duỗi ra ngã ba sông trước mặt…
Minh Lâu - lăng Minh Mạng
Từ ngoài vào trong, các công trình được phân bố trên ba trục lớn song song với nhau mà đường Thần đạo là trục trung tâm. Các công trình được đối xứng nhau từng cặp qua trục chính xuyên tâm lăng. Mở đầu Thần Đạo là Đại Hồng Môn – cổng chính vào lăng. Cổng có 3 lối đi với 24 mái lô lô cao thấp và các trang trí rất đẹp… được coi là tiêu biểu của loại cổng tam quan đời Nguyễn. Cổng chỉ mở một lần để đưa quan tài của vua vào lăng, sau đó đóng kín, ra vào phải qua hai cổng phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn.
Đại Hồng Môn - lăng Minh Mạng
Sau Đại Hồng Môn là sân rộng, hai bên có hai hàng tượng quan viên, voi ngựa. Cuối sân là Bi đình năm trên đồi Phụng Thần Sơn, bên trong có bia “Thánh Đức thần công” do vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha. Tiến đến là sân triều lễ được chia làm 4 bậc. Mở đầu cho khu vực tẩm điện (nơi thờ cúng vua) là Hiển Đức Mông; điện Sùng An nằm ở trung tâm thờ bài vị của vua và bà Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu. Hoàng Trạch Môn là công trình kết thúc khu vực tẩm điện và ngát thơm mùi hoa dại. Ba cây cầu Trung đạo (giữa). Tả phụ (trái), Hữu Bật (phải) bắc qua hồ Trừng Minh dẫn du khác đến Minh Lâu (lầu sáng) xây dựng trên quả đồi có tên là Tam Tài Sơn. Tòa nhà có hình vuông, hai tầng, tám mái. Hai bên Minh Lâu về phía sau là hai trụ biểu dựng trên hai quả đồi Bình Sơn và Thành Sơn. Phía sau Minh Lâu là hai vườn hoa hình chữ Thọ đối xứng nhau qua đường Thần đạo.
Lăng Minh Mạng nhìn từ trên cao
Hồ Tân Nguyệt hình trăng non ôm lấy Bửu Thành (thành quanh mộ) hình tròn nằm mở giữa. Qua cầu Thông Minh Chính Trực bắc qua Hồ Tân Nguyệt, có 333 bậc đá thanh dẫn du khách vào thăm nơi yên nghỉ của nhà vua nằm giữa tâm quả đồi mang tên Khai Trạch sơn được giới hạn bởi Bửu Thành hình tròn. Bên cạnh hàng loạt các công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cao, gần 60 ô chữ chạm khắc các bài thơ trên Bi đình, Hiển đức môn, điện Sùng An và Minh Lâu cũng là những tuyệt tác giá trị – một bảo tàng thơ chọn lọc của nền thi ca Việt Nam đầu thế kỷ XIX…
Lăng vua Minh Mạng trong mưa
Thăm lăng Minh Mạng, du khách ngỡ mình lạc vào không gian của hội họa, thi ca và triết học. Ngoài tính cách đăng đối uy nghiêm, đường bệ, lăng Minh Mạng còn có những nét quyến rũ của thiên nhiên đã được cải tạo để làm bối cảnh cho các công trình kiến trúc.
Trong chòm cây cuối cùng của hình nầy, đó là ngọn đồi, Vua Minh Mạng được an táng một nơi nào đó trên đồi ấy, được giữ bí mật không ai biết! (Theo lời Hướng Dẫn Viên công ty du lịch)
Lăng tẩm nguy nga như thế nhưng bên ngoài vòng thành bao bọc khu phần mộ mênh mông ấy, bao người ăn xin ..dưới mọi hình thức có khi thấy mà "bất nhẫn"
Chúng tôi rời Lăng nén tiếng thở dài
NhàQuê Nov 26, 2012