Những "ngôi trường xưa Em học"
Đoản Rời: Dục Mỹ! À! Chợt Nhớ
Với tôi, Dục Mỹ nơi chốn đầu tiên xa nhất của miền Trung mà tôi có đến và ở đó bốn tháng; Tôi là người miền đồng bằng sông Cửu Long, chính xác hơn tôi là người Kiến Hòa.
Nhân đọc thơ Quan Dương thấy có nét gì lạ lạ và truyện của ông gần gũi với xúc cảm thời học sinh và thời ngủ rừng, tôi bèn phăng tới và tìm ra Website Ninh Hòa
Cũng qua đó tôi đọc bài của cô Hà Thị Thu Thủy và bạn Phó Ðức Lâm nói về Dục Mỹ, cái Thành Phố Nhà Tranh Vách Ðất mà từ 19-08-1967 đến 05-01-1968 tôi đã thụ huấn pháo binh ở Huấn Khu đó.
* * *
Tôi trong số 36 mạng Khóa 25/SQTB Thủ Ðức được chọn đi học Pháo Binh, khóa trước đó không có người nào. Nằm vật nằm dựa ở phi trường Tân Sơn Nhất chờ chuyến bay, cuối cùng rồi cũng được leo lên chiếc C-130 của Mỹ, phi cơ đáp xuống phi trường Nha Trang đã nửa đêm, lần đầu tiên đi máy bay lại là phi cơ quân sự, ngồi bẹp xuống sàn lổm ngổm quân trang, lại đi ban đêm: Cũng như không! Kể như chưa biết đi máy bay là gì.
Phải thêm lo vì trước khi cất cánh, mỗi người được phát cho một miếng giấy nhỏ nói về ưu điểm của chiếc Hercule nầy cùng hướng dẫn an toàn: Nào là khi khẩn cấp sẽ đáp xuống biển và có 30 phút chưa chìm hẳn để mọi người thoát ra ngoài: Lạnh ót!
Thành phố "Thùy Dương Cát Trắng" tiếp đón chúng tôi ở khách sạn ngàn sao một góc nào đó trong khu quân sự phi trường. Rà hết băng tần duy nhất của cái radio bỏ túi không nghe được đài nào: “Buồn ơi là buồn!” Vậy là “Nước trôi ly biệt nguồn”.
Sáng hôm sau được GMC bỏ xuõng cuối đường Ðộc Lập chờ xe trường Pháo Binh đến rước. Chúng tôi cắt phiên canh giữ quân trang, thay nhau đi phố, có đứa mua mang về cuốn Ðời Pháo Thủ của Nguyên Vũ (K16/PB), chuyền tay nhau đọc; Thấm thía về tương lai nhà pháo của mình!
Mấy ông tài xế nhà binh lái xe thì phải biết, mấy Ổng leo và đổ dốc đèo Rù Rì không cho chúng tôi phút nào "xa quê hương nhớ mẹ hiền" được cả! Xón thật! Hai xe ngược chiều cơ hồ đâm vào nhau. Cuối dốc mới được thở ra, ngắm nhìn phong cảnh.
Trời về chiều, núi ngã màu xanh sẫm, mây xuống thấp la đà, xa hơn cái nhà ga xe lửa đứng đơn độc, là xóm làng gần giáp chân núi sương khói giăng giăng, con đường dẫn tới trông hiu hắt làm sao; Chúng tôi không còn pha trò nhau, im lặng, mỗi người chìm vào thế giới riêng.
Không biết do đâu, tự tôi đặt tên ga phía trái trước khi leo đèo Rọ Tượng là ga Diên.
Vậy là bây giờ tôi mới biết xóm nhà cuối khu rừng nước mặn thưa thớt toàn cây mắm trắng và ô rô về phía phải của Quốc Lộ 1 trước khi đến đèo là làng Tân Thủy, cùng tên với quê tôi và cũng sinh sống bằng nghề biển. Trước khi qua đèo, nghe nói Rọ Tượng nguy hiểm hơn Rù Rì làm tôi lo một phen nữa lên ruột , nhưng không chẳng có gì: An toàn trên xa lộ!
Có lẽ tôi ngồi bên băng phía lề mặt nên tôi nhìn thấy rõ trường Trung Học Trần Bình Trọng với hàng chữ tên trường màu đỏ, trường trệt không nằm cạnh đường mà xa bên trong, phía trái từ hướng Nha Trang tới.
Tôi lầm lẫn, tưởng rằng trường Pháo Binh gần trường Ðồng Ðế tức ngoại ô Nha Trang.
Khi đến ngã ba Ninh Hòa xe ngừng, tôi lại tưởng trường ở lòng vòng gần đây; Lại lầm! Ðường trường xa...
Ngừng ở ngã ba Ninh Hòa gần như thông lệ hay sao của mấy bác tài xế nhà binh, tôi khám phá ra điều nầy vì sau đó lần nào cũng vậy mấy ảnh bỏ đi đâu mất tiêu, tụi tôi biến thành người trông chừng xe cho mấy trự nầy.
Ở ngã ba đó, tiệm nem nướng Thái Thị Trực hấp dẫn tôi khiến sau đó mấy lần tôi trở lại có khi phải đi về trường bằng xe lam; Vậy mà có đứa lại nói có tiệm khác ngon hơn mà nó không chịu chỉ trước: Thế có ức không?
Mấy năm sau tôi trở về trường làm giám khảo kỳ thi mãn khóa, tôi lại có dịp cùng mấy sĩ quan giám khảo khác dùng chiếc Dodge 24 của trường để thăm Ninh Hòa. Lại đến Thái Thị Trực làm nem nướng rồi lái lòng vòng dọc Quốc Lộ.
Đám xe sư đoàn Mãnh Hổ hay Bạch Mã gì đó của Củ Sâm, gần như chẳng buồn tránh ai dù trục lộ khúc đó chẳng rộng rãi gì. Ninh Hòa tôi chỉ biết thế!
* * *
Trường Pháo Binh Dục Mỹ nằm sau lưng Trung Tâm Huấn Luyên Biệt Ðộng Quân, dẫn vào bằng con đường cặp hông hướng từ Ninh Hòa tới, ngăn bằng hàng rào kẻm gai đơn sơ.
Thế mà đấy là lằn ranh thiên đường địa ngục, chúng tôi cho là vậy: Ai có qua các khóa Rừng Núi Sình Lầy, Viễn Thám thì sẽ biết mức gian truân của Lò Luyện Thép nầy, trong lúc chúng tôi mỗi bước lên xe hơi, không uổng phí cuộc đời .
Ðã đi xe mà còn thêm ghế bố xếp xách tay. Thực ra chúng tôi không thể cuốc bộ vì đồ nghề lỉnh kỉnh, nào là: Bàn chân xếp đặt xạ bảng, GB là dụng cụ gióng hướng súng, ống dòm, la bàn, bản đồ, họa xạ biểu, họa tà biểu, quạt hướng tầm, cả lô kim mục tiêu và viết chì phải học cách chuốt từ ngày đầu tiên, chúng tôi giống như anh họa sĩ đi tìm cảnh đặt giá vẽ, móc thêm chú 105 hoặc 155 tùy theo buổi học.
Không sung sướng đâu các bạn ơi! Tụi tôi bù đầu vật lộn với các môn: Chiến Thuật, Ðịa Hình, Trung Ương Tác Xạ, Chiến Cụ & Ðạn Dược, Khẩu Ðội Vụ, Quân Xa, Truyền Tin và cả Chiến Tranh Chánh Trị nữa.
Bao nhiêu quyển Binh Thư có mã số riêng nặng chình chịch, từng quân trang quân dụng vũ khí chiến cụ phải nhớ một lô danh số và đặc tính, cách sử dụng và hiệu quả của chúng, rồi sử dụng bảng Lô Ga Rích giải địa hình .. và giải toán tác xạ chuẩn định chính xác, chuẩn định thời nổ, giải khí tượng, : Nhức đầu lắm! Nếu không thì rớt!
Bù lại, chúng tôi chiều nào cũng ra phố Dục Mỹ tự do trừ những khi dã trại đêm. Cuối tuần có xe đưa đi Nha Trang, chiều Chúa Nhật ruớc về.
Người thân một đứa bạn tôi, vốn là thầu khoán đó đây, có biệt thự bỏ hờ do một quản gia trông coi trên đường Biệt Thự, hai đứa tôi cuối tuần ra đó, được lo chăm sóc như ông chủ nhỏ.
Từ biệt thự đó lội bộ băng qua đường với khăn tắm vắt vai, là đã tới biển khu vực gần nhà hàng Kim Sơn có rào kẻm gai, nghe nói dành riêng cho Phó Tổng Thống Kỳ, chán về đã có cơm dọn sẳn sàng.
Đôi lần xuống tận chợ Chụt làm vài quả Phở, lại cũng nghe nói Phó Tổng Thống Kỳ ưa tới đây: Tôi cho phở Chụt đạt điểm A!; Nhưng tụi tôi vẫn thích khu vực đường Ðộc Lập hơn hẩu xực mì xào dòn đồ biển , đớp bún bò huế đường Hoàng Tử Cảnh và vài chuyện ai cũng biết .
Càng về sau chuyện đi Nha Trang thưa thớt dần vì tiền lính tính liền.
Ðầu tháng lảnh lương, bà Ðô chủ câu lạc bộ trường Pháo Binh, bắt ghế ngồi gần nơi phát ngân viên làm việc, bà thu không sót một xu các anh nào trong tháng Gô Sĩ Ghi Sổ ăn chịu bà ta. Con nhỏ Ngân Thủy con bà, thường gọi Ngân, đẹp không có chỗ nào chê được, nhỏ cười liếc ai cũng có cảm tưởng cô ta đang để ý tới mình. Lầm to! Nhỏ đi về đã có người đưa đón.
Có cái câu lạc bộ đó cũng đỡ lắm, mỗi sáng chúng tôi đến uống cà phê và xin một bi đông nước đun sôi chống sốt rét. Việc nầy nhỏ Thủy tử tế có thừa, chắc Nhỏ cũng sợ dùm các Quan tương lai dính chấu bệnh chưa chi đã run.
Phòng ăn dành cho SVSQ chúng tôi bàn ghế đóng bằng gỗ thông: Pháo Binh mà! Mỗi bàn bốn đứa bốn cạnh, trước mặt một dĩa ớt hiểm tươi rói, một gói thuốc nâu có, đỏ có, hai ba thứ ngừa sốt rét, món ăn có thịt, cá, bò thay đổi, nhưng món măng bao giờ cũng hiện diện mỗi ngày chưa có triệu chứng nào đào ngũ dù có khác cách chế biến.
Từ đó tôi bắt đầu ăn ớt nhất là hôm nào có món cá biển, cá tương đối còn tươi, nghe nói từ Vạn Giã chở lên.
Trừ những khi trời mưa, chiều nào chúng tôi cũng có mặt ở các quán cà phê Dục Mỹ, có khi đi lang thang chẳng có mục đích gì. Nay đọc lại các bài viết trong ninh-hoa.com mới nhớ ra rằng: À ! Ở Dục Mỹ các con đường mang số 1, 2, 3 ...
Lần đó tôi đến tiệm Tân An rửa hình , đúng lúc con nhỏ Yến con chủ tiệm bí toán, tôi thấy Nhỏ loay hoay quên cả hỏi tôi, khách hàng mới vào. Nhìn qua tôi ngứa nghề giải sơ cho Nhỏ, không biết Nhỏ có hiểu không? Nhưng lần đến lấy hình , Ba Má của Nhỏ mời uống nước và ngỏ ý nhờ dạy kèm cho Nhỏ. Tôi nhận lời và bảo Nhỏ tìm thêm vài người nữa.
Khi lớp bắt đầu tôi mới biết rằng họ mất căn bản rất nhiều, tôi phải ôn lại từ đầu cho họ. Tôi dạy giúp họ không nhận thù lao. Mỗi ngày học sinh ở đó có xe của các quân trường đưa đón tận Ninh Hòa, học sinh phần đông là con em của quân nhân của Huấn Khu.
Lúc ấy tôi vẫn tưởng ở Ninh Hòa chỉ có trường Trần Bình Trọng mà thôi. Gia đình tiệm hình Tân An có nói họ từ Diên Khánh ra. Ở đây người ta gọi đi Diên Khánh là đi Thành, tên gọi tắt. Cô Hà Thị Thu Thủy có nhớ tiệm hình Tân An và nhỏ Yến nầy không?
Có những đêm kéo súng lên Lam Sơn trực, tụi tôi cũng mò về chợ Dục Mỹ uống cà phê cho ấm lòng chiến sĩ, từ đó lên trung tâm huấn luyện Lam Sơn phải ngang qua phi trường Dục Mỹ, mà phía đối diện là bãi tập Ðịa hình và Chiến Thuật, cũng như nơi diễn tập và thao dượt cuối khóa chúng tôi.
Trong mé rừng bãi tập ấy, có cả một chợ nhỏ đủ loại thức ăn thức uống và đặc biệt mấy chị bán cháo gà chờ chúng tôi giờ xả hơi. Phải nói gà ở đây ngon tuyệt, tôi thường mua thêm một quarter leg mới đã! Mỗi lần tôi mua là chị hỏi: Nguyên đùi gà phải hôn? Trả lời: Yếu tố cũ, một tràng! Không biết nồi cháo còn lại chị bán làm sao đây? Thực khách đến sau chắc phải dùng loại không người lái.
Khi học các bài về Khẩu Ðội Vụ, có khi súng phải được kéo vào tận xạ trường xa trong núi, nơi đó nhìn rõ đỉnh Vọng Phu không cần phải dùng ống dòm. Trên đường đi, về xe ngang qua Buôn Sim, Buôn Lác lô nhô nhà sàn và mùi hăng gia súc, có những tối trên đoạn ấy, gặp các bạn bên Biệt Ðộng Quân lặng lẽ di chuyển trong đêm.
Còn trên quốc lộ 21 từ hướng Ninh Hòa đến, trước khi leo dốc Núi Ðeo, ai cũng thấy bảng to tướng "Nơi Ðây Lò Luyện Thép" , bao giờ cũng nghe tiếng la hét xung phong về phía có dây tử thần.
Cái đáng nhớ nhất là có một sáng chúng tôi ra chợ uống cà phê về, chuẩn bị hay đã ăn cơm xong, vì chúng tôi cứ đủ bốn người là mời các Quan cầm đũa chứ không cần đông đủ. Bỗng có kẻng báo động, mấy đứa về trễ hơn nói ngoài chợ đã lụt tới đầu gối rồi.
Tôi chưa tin vì trời chỉ lâm râm chứ không có trận nào mưa lớn từ mấy ngày qua và tôi cũng mới về từ ngoài ấy. Hướng núi có lẽ mưa mấy hôm nay, trời mù không nhìn thấy đỉnh Vọng Phu. Tôi cũng theo đoàn người đi, thực ra do hiếu kỳ chứ tôi không có nhiệm vụ gì.
Lụt thật! Lụt gì mà dễ vậy! Ðứng ở trụ cây số có chữ Nha Trang 47 Km, bên kia đường trước Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Ðộng Quân nhìn nước đục ngầu đang chảy cuồn cuộn từ nguồn suối Dục Mỹ xuống, ngập mất lan can cầu, giòng nước hung hãn mang theo cây khô, nhánh to. Các bạn sau nầy thấy thành cầu Dục Mỹ có gãy một đoạn hay được vá lại là do trận lụt năm ấy. Các nhà vách đất rệu rã thãm hại. Dòng suối hàng ngày nước tận lòng lạch, đứng trên cầu nhìn xuống mấy cô ra lấy nước, giặt giũ ngồi trên mấy tảng đá trông nhỏ xíu, sâu bên dưới. Phút chốc con suối hiền hòa trở nên kẻ hung bạo.
Khí hậu Dục Mỹ rất bất thường, ban trưa nóng ngủ dậy không nổi, uống hai trái dừa lạnh do các anh quân nhân cơ hữu trường mang bán dạo, cũng chưa đã khát, dừa Ninh Hòa nhỏ và ngọt hơn dừa Bến Tre.
Ban tối lạnh khó lòng tắm được, từ đó tụi tôi sáng chế ra kiểu tắm rất Pháo Binh: Tắm trên miền (dựa theo tên một loại tác xạ: Tác xạ trên miền), tức chỉ tắm những phần cần tắm. Vậy chứ vẫn cứ tán nhỏ Ngân Thủy thơm tho dài dài, không thuyên giảm .
* * *
Ðầu năm 1968 tôi mãn khóa, sáng 06 tháng 01 năm 1968 tôi rời trường về Nam, lần nầy tôi mua vé hàng không Việt Nam: Nhớ nhà quá! Không chờ phương tiện nhà binh được. Dù có trở lại một lần vài năm sau đó, nhưng mấy chục năm qua tôi chưa gặp lại một ai kể cả các bạn cùng khóa ít ỏi chỉ có 36 người tính luôn tôi đã được rải ra khắp bốn vùng chiến thuật.
Nay đọc trong ninh-hoa.com gợi cho tôi nhớ một khoảng thời gian trong đời rằng có lần tôi đã đến đó: Vùng đất xem ra nghèo nhưng dễ thương!
NhàQuê
Kính anh Nhà Quê,
Rất vui khi được biết anh gia nhập vào trang Ninh Hòa đồng hương của chúng tôi. Nhân dịp đọc bài viết của anh trên trang Web ninh-hoa.com về Dục Mỹ thật hay, gây cho tôi nhiều cảm xúc và xin có đôi lời nhờ trang Web gởi về anh .
Dù chỉ một thời gian ngắn nhưng anh đã có những kỷ niệm và yêu mến xứ nhỏ của chúng tôi vùng đất xem ra nghèo nhưng dễ thương. Cuộc sống nơi đó sau 1975 đã không còn được như trước vì chiến tranh tàn phá một phần nào và sự sinh sống của những người dân nơi đó xưa kia sống nhờ vào 3 trung tâm quân đội giờ đây cũng không còn nữa nên quang cảnh sinh hoạt hoang vắng hơn trước nhiều. Những hình ảnh cũ đã mất hết cả rồi. Nay được một người là quân nhân xưa kia, dù chỉ ghé qua một thời gian ngắn nhắc đến, tôi thật sự cảm động, thế mới biết những người đã sống từ thuở bé trong vùng quê nhỏ đó dành sự yêu thương cho nó nhiều biết dường nào. Cám ơn anh đã dành tình cảm cho quê nhỏ chúng tôi.
Qua lời hỏi thăm của anh về chị Yến con của bác Tân An tiệm chụp hình, tôi được biết ba má của chị vẫn còn ở Dục Mỹ tại căn nhà xưa, chị Yến đã lập gia đình và có 3 cháu, hiện chị đang sống tại Quảng Ngãi quê chồng, chị lớn hơn tôi hai lớp. Chị có người em gái tên Oanh đang sống tại Mỹ là bạn học với em gái của tôi, Oanh có về VN và ghé thăm chúng tôi vào tháng 9/2004.
Kính chúc anh và gia đình vui khỏe, hạnh phúc. Mong được đọc nhiều bài viết của anh gởi qua trang Web ninh-hoa.com, chúc anh sáng tác nhiều.
Kính thư.
Thu Thủy
Vịnh Đỉnh Vọng Phu
Dặm tiễn lên đường nhắm hướng Đông
Người về chót đỉnh đứng chờ trông
Non thương giúp nhón … nâng tầng đá
Biển cảm dùm loang … dịu nắng hồng
Biểu tượng kiên trinh trong ngữ ngạn
Hình trưng tiết liệt giữa thinh không
Mây trôi vướng núi dừng lưu luyến
Hóa thạch "Vọng Phu" mãi đợi chồng
NhàQuê
(Được họa từ bài xướng Vọng Phu Thạch bên dưới)
Vọng Phu Thạch
Ngóng đợi phu quân cuối bể đông
Đăm chiêu thiếu phụ mỏi mòn trông
Bồng con rủ rượi hai hồn đá
Dẩm núi trơ vơ một bóng hồng
Đếm bước kim ô trầm đỉnh ngạn
Đong gương ngọc thổ ngự tầng không
Thoi đưa tạc dấu trang tình luyến
Khắc giữa nhân gian khổ vọng chồng
Đồng Lão